Từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, dù Hà Nội đã là một đô thị văn minh hơn các vùng quê, thế nhưng phụ nữ có thai vẫn phải trông cậy vào bà mụ. Khi người phụ nữ sắp sinh nở, gia đình sẽ mời bà mụ đến thăm thai và bà mụ sẽ dự đoán thời gian sinh. Tuy không tin vào những hủ tục nặng màu sắc mê tín như các vùng miền khác nhưng việc sinh con với phụ nữ Hà Nội cũng luôn rập rình nhiều nguy hiểm.
Năm 1902, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ra quyết định thành lập trường Y khoa Đông Dương (École de Médecine de l’Indochine - tiền thân Đại học Y Hà Nội hiện nay). Cùng với trường là bệnh viện thực hành được xây dựng tại ấp Thái Hà. Tuy nhiên do Thái Hà khi đó ở vùng ngoại ô không thuận tiện cho việc đi lại nên năm 1904, chính quyền bảo hộ quyết định sung công bệnh xá của bà phước Antoine trên đất Phủ Doãn.
Sau khi sung công, toàn quyền Paul Beau (thay Paul Doumer) ra quyết định thành lập Bệnh viện Bảo hộ (Hopital du Protectorat - sau năm 1954 đổi thành Bệnh viện Hữu nghị Việt - Đức), nhưng vì xây trên đất Phủ Doãn xưa nên dân gọi là Nhà thương Phủ Doãn. Còn phần đất thuộc tu viện Carmel trở thành nhà hộ sinh đầu tiên của Hà Nội (tiền thân của Viện Bảo vệ Bà mẹ và Trẻ em hiện nay, còn gọi là Viện C).
Paul Beau đã thay Hiệu trưởng mới là bác sĩ Cognacq, còn bác sĩ Le Roy des Barres, được cử làm Giám đốc bệnh viện và phụ trách nhà hộ sinh. Lần đầu tiên trong lịch sử, sản phụ ở Hà Nội sinh con theo kiểu phương Tây, nghĩa là nếu phụ nữ đó khó sinh hoặc gặp nguy hiểm thì bệnh viện có thể can thiệp bằng phẫu thuật.
Theo Tạp chí Đông Dương, năm 1905 nhà hộ sinh thành phố đã đón 250 sản phụ, năm 1906 là 474, số sản phụ tăng lên chứng tỏ các bà mẹ ở thành phố tin tưởng sinh con ở bệnh viện. Ngay từ khi Bệnh viện Bảo hộ thành lập thì trường Y khoa Đông Dương đã mở lớp đào tạo nữ hộ sinh người Việt Nam học tại bệnh này. Tuy nhiên những năm đầu thế kỷ XX, phụ nữ có văn bằng tiếng Pháp rất hiếm nên họ phải đào tạo theo kiểu không chính quy, nghĩa là học nghề tại bệnh viện.
Tính đến năm 1914 trường đã đào tạo được 237 y sĩ, y tá và nữ hộ sinh nhưng nữ hộ sinh lại chỉ có mấy chục người. Nguyên nhân là nghề hộ sinh vất vả, phải trực đêm ở bệnh viện trong khi lương lại thấp hơn nghề dạy học nên nhiều người học xong nếu lấy chồng là họ bỏ nghề. Dù vậy nhưng vẫn có nhiều người mong muốn học nghề này vì nếu có bằng, họ có thể mở nhà hộ sinh tư.
Năm 1918, Hà Nội xuất hiện nhà hộ sinh tư đầu tiên là “Rồng Vàng” ở số nhà 40 Rue Takou (nay là phố Hàng Cót). Chủ là cô Tiến, một trong những học viên khóa năm 1916 của trường Y Hà Nội, khóa này được đào tạo chính quy đầu tiên. Nhà hộ sinh “Rồng Vàng” trang bị đầy đủ cơ sở vật chất lại do bác sĩ Le Roy des Barrdes đỡ đầu nên mỗi khi gặp ca khó thì chính bác sĩ này trực tiếp xử lý nên thu hút rất đông sản phụ thuộc tầng lớp trung lưu đến sinh con.
Tầng lớp này không muốn đẻ ở Nhà thương Phủ Doãn vì ngại nằm chung phòng với tầng lớp tiểu thương và dân nghèo song họ lại không thể đẻ ở Bệnh viện Saint Paul nơi chỉ dành cho vợ quan lại, công chức cao cấp người Việt, người Pháp. Nhạc sĩ Phạm Duy được sinh ở nhà hộ sinh 40 Rue Takou. Tiếp sau bà Tiến, cô Josephine người Pháp cũng mở nhà hộ sinh ở số 10 phố Đồng Xuân.
Để khuyến khích phụ nữ theo học hộ sinh, Chính phủ bảo hộ chỉ yêu cầu có bằng Tiểu học (tức là có thể nói được tiếng Pháp), người trúng tuyển được cấp học bổng, năm thứ nhất là 6 đồng/tháng, năm thứ 2 là 8 đồng/tháng. Tốt nghiệp đi làm bệnh viện công hưởng lương 25 đồng/tháng (thời điểm này một tạ gạo giá 3 đồng) cao hơn y tá nhưng lại kém lương giáo viên tiểu học.
Những chuyện “thành kiến” với nữ hộ sinh hoặc có đảm bảo của bác sỹ Tây dần lùi vào quá khứ và xã hội đã tin tưởng vào chuyên môn của các nữ hộ sinh Hà Nội. Số bác sỹ tốt nghiệp Trường y Hà Nội ngày càng nhiều, có bác sĩ làm bệnh viện công, có bác sĩ làm việc cho các ngành nhưng cũng nhiều bác sĩ mở bệnh viện tư, ví dụ như bệnh viện Đặng Vũ Lạc, Hoàng Thụy Ba, Nguyễn Văn Chính… và các bệnh viện này đều có khoa sản.
Trước khi trở thành Chủ tịch Ủy ban Hành chính TP Hà Nội cuối tháng 8-1945, bác sĩ Trần Duy Hưng có bệnh viện tư ở phố Bông Thợ Nhuộm và chính ông đã đỡ đẻ cho em gái mình. Cho đến năm 1945, sản phụ khu vực nội thành hầu như đều sinh con tại bệnh viện hay nhà hộ sinh tư, rất hiếm người nhờ bà mụ đỡ.
Sau 1954, cả 4 khu phố nội thành gồm Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm, Ba Đình, Đống Đa thì mỗi khu đều có một nhà hộ sinh, nhưng sản phụ vẫn có thể sinh con tại bệnh viện. Ở ngoại thành, các trạm y tế xã cũng có người đỡ đẻ được đào tạo. Và Hà Nội không còn tình trạng nhờ bà mụ đỡ đẻ nữa.